VĂN HÓA TỪ CHỨC - THƯỚC ĐO BẢN LĨNH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

Thứ bảy - 14/06/2025 22:29 75 0
Trong bất kỳ nền hành chính hiện đại nào, “văn hóa từ chức” không chỉ là biểu hiện của trách nhiệm chính trị mà còn là thước đo của lòng tự trọng, danh dự và bản lĩnh của người cán bộ. Khi một cá nhân ở vị trí lãnh đạo tự nguyện rút lui vì không hoàn thành nhiệm vụ, để xảy ra sai phạm, hoặc đơn giản vì tự thấy không còn phù hợp, đó không phải là sự thoái lui, mà là hành vi dũng cảm, thể hiện tinh thần trách nhiệm và liêm sỉ nghề nghiệp.
        Ở Việt Nam, trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân đang nỗ lực xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; cải cách hành chính và tinh gọn bộ máy là nhiệm vụ trọng tâm, thì yêu cầu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức càng trở nên cấp thiết. Trong tiến trình đó, việc hình thành và phát huy văn hóa từ chức không chỉ góp phần thanh lọc bộ máy mà còn là bước đi tất yếu để củng cố niềm tin của nhân dân, xây dựng một nền công vụ minh bạch, trách nhiệm và liêm chính.
          “Từ chức” - hiểu theo nghĩa rộng là hành động tự nguyện rút lui khỏi chức vụ khi thấy mình không còn đủ năng lực, đạo đức hoặc uy tín – không phải là hiện tượng mới trong đời sống chính trị Việt Nam, mà thực tế đã có từ rất sớm trong lịch sử dân tộc.
         
261120230529 nguyen binh khiem
Từ xưa các cụ đã coi việc “treo ấn từ quan”, “cáo quan hồi hương” là một cách giữ tiết tháo,
thuộc đạo làm quan của những ông quan thật sự vì dân vì nước. (hình minh họa).

         Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, tuy chế độ quân chủ tập quyền trao quyền lực tối cao cho vua, nhưng vẫn tồn tại những chuẩn mực đạo lý nghiêm khắc về bổn phận của người làm quan. Nhiều danh thần, trung thần trong lịch sử đã từng chủ động xin từ quan, từ chức vì lý do danh dự, bất đồng chính kiến hoặc vì cảm thấy mình không còn đủ sức cáng đáng việc nước. Những cái tên như Chu Văn An - xin treo mũ từ quan để giữ khí tiết, hay Nguyễn Trãi - rút về ở ẩn sau khi công thành danh toại, là những ví dụ điển hình về văn hóa rút lui vì đạo lý và trách nhiệm.
          Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn đề cao tinh thần “tự soi, tự sửa”, coi việc tự giác nhận lỗi, biết rút lui khi không còn xứng đáng với vị trí là biểu hiện của liêm sỉ, khí chất và văn hóa chính trị cao đẹp. Người chỉ rõ: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân”[1]; “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”[2], “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”[3]. Và đối với bản thân mình, Bác tâm niệm: “Tôi tuyệt nhiên không ham công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”[4]. Đó chính là tư tưởng và đạo đức sáng ngời của một nhà cách mạng vĩ đại, một tấm gương mẫu mực suốt đời luôn vì nước, vì dân để chúng ta noi theo. Bác không những không nghĩ mình là người có quyền cao chức trọng, mà còn tỏ ý khiêm nhường khi biết mình có thể vì tuổi tác, năng lực, uy tín chưa tương xứng, ngang tầm với vị trí quyền lực được nhân dân ủy thác, trọng trách được nhà nước giao phó, nên tự giác, vui vẻ chấp thuận trở về với cuộc sống đời thường của muôn dân: “Bao giờ đồng bào cho lui, thì tôi rất vui lòng lui” - Đó chính là “văn hóa từ chức” mà Người từng nhắc đến.
        Theo nghĩa luật hóa, “Từ chức là việc cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý đề nghị thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời gian bổ nhiệm” (Điều 07, Luật CBCC năm 2008, sửa đổi bổ sung 2019). Như vậy, từ chức là hành vi chủ động thuộc về mỗi cá nhân cán bộ, công chức, tuy nhiên, hành vi đó chỉ trở thành văn hóa khi nó là sự tự giác và thôi thúc từ bên trong mỗi cán bộ công chức biết tự trọng và thấy xấu hổ về năng lực hay những lỗi lầm, khuyết điểm của bản thân, hay nói cách khác là tự thấy không còn xứng đáng đảm nhận nhiệm vụ. Đây là thái độ trung thực với chính mình, là biểu hiện của sự tự trọng. Đó là một dạng của văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử mà chế tài chính là “lương tri” của từng cán bộ, công chức.
         Văn hóa từ chức là một biểu hiện sinh động, cụ thể và thiết thực nhất về một nền chính trị văn minh dựa trên phẩm giá, lòng tự trọng và bản lĩnh của những nhà lãnh đạo thực sự có tâm huyết và đầy dũng khí, tương phản với nó là một nền chính trị đặc trưng bằng những nhà cầm quyền tham quyền cố vị, sẵn sàng giữ địa vị bằng mọi giá, thầm chí “chà đạp” lên dư luận để giữ địa vị của mình.
        Quả thật, vấn đề từ chức hay nói rộng ra là “có lên có xuống, có vào có ra” là phần việc rất bình thường trong công tác cán bộ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta trong nền  công vụ hiện đại, vấn đề này cũng có nhưng khách quan mà nói biểu hiện trong thực tiễn chưa nhiều. Đặc biệt, vấn đề này càng không thể có đối với những người “chạy chức, chạy quyền”, những người có người năng lực, trình độ yếu, không hoàn thành nhiệm vụ, thậm chí có sai phạm còn chạy tội, chạy thành tích để tiếp tục “giữ ghế”. Tình trạng nói trên đã gây ra nhiều tiêu cực, hệ lụy trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là trong công tác cán bộ, và là nguyên nhân dẫn đến một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất làm tổn hại đến uy tín, danh dự của Đảng, Nhà nước, làm mất niềm tin trong nhân dân.
        Kế thừa và phát huy tư tưởng sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ, tiếp tục xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài đảm nhận nhiệm vụ, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều chính sách có liên quan đến vấn đề từ chức của Đảng viên, cán bộ, công chức.
        Ngay từ năm 1997, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII của Đảng đã chỉ ra yêu cầu cần kíp: “Xây dựng và thực hiện tốt chế độ miễn nhiệm, từ chức, cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ”.
         Đến Luật CBCC 2008 (sửa đổi, bổ sung 2019), vấn đề từ chức của cán bộ, công chức được nêu rõ hơn tại Điều 7, Điều 30, Điều 54, trong đó, đề cập cụ thể khái niệm, các trường hợp miễn nhiệm hoặc từ chức đối với cán bộ, công chức, như không đủ sức khỏe; không đủ năng lực, uy tín; theo yêu cầu nhiệm vụ; Tiếp đó, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 260-QĐ/TW, ngày 2/10/2009, về “Việc thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức của cán bộ”.
Tiếp tục chủ trương trên, trong giai đoạn 2011 - 2016, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều chủ trương, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, như: Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp” và Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”.
          Giai đoạn 2015 - 2020, Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ nêu rõ: “Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hoá ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc “có lên, có xuống”, “có vào, có ra” trở thành bình thường trong công tác cán bộ”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” trong đó có nội dung: “chủ động xin từ chức khi thấy mình không còn đủ điều kiện, năng lực, uy tín để thực hiện nhiệm vụ”.
          Đến năm 2021, Trung ương Đảng ban hành Quy định 41-QĐ/TW ngày 03/11/2021 về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ, trong đó quy định rất cụ thể về căn cứ để xem xét đối với cán bộ xin từ chức trong một số trường hợp nhất định.
261120230411 box 3

        Như vậy, có thể thấy tư tưởng về vấn đề từ chức trong cán bộ, công chức đã được thể hiện nhất quán qua một thời gian dài qua rất nhiều văn bản, nó cho thấy tinh thần, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực đảm đương nhiệm vụ. Tuy nhiên, trên thực tế, các quy định xây dựng “văn hóa từ chức” vẫn chưa đồng nhất, vẫn chưa có một văn bản thật sự cụ thể. Vậy nên, mặc dù chúng ta vẫn đang cố gắng thực hiện nhưng “từ chức” có vẻ như vẫn còn là phạm trù văn hóa khá “xa xỉ” đối với cán bộ, công chức.
        Trước thực trạng trên, để xây dựng được văn hóa từ chức trong cán bộ, công chức cần thực hiện nhiều giải pháp khác nhau.
        Thứ nhất, cần thay đổi quan niệm của xã hội về vấn đề từ chức. Đối với vấn đề này, hiện nay, theo tôi có một số bất cập.
        Trước tiên, có thể thấy từ trước đến nay chúng ta thường chỉ quan niệm cán bộ có sai sót nên mới phải từ chức. Trong dư luận, xã hội, gia đình thường ngầm hiểu từ chức là một dạng của cách chức, do đó từ chức trở thành vấn đề rất nặng nề. Tuy nhiên, đã đến lúc cần hiểu rằng từ chức có rất nhiều lý do: làm sai, kém năng lực, không được tín nhiệm, sức khỏe yếu,…Tức là từ chức chỉ là một nét văn hóa, thể hiện sự văn minh, lịch sự của cán bộ, công chức khi không thể phục vụ nhân dân tốt hơn, thể hiện sự tự trọng của bản thân. Và vì thế, nên xem việc từ chức trên bình diện nhiều khía cạnh, lúc đó, việc từ chức sẽ nhẹ nhàng, văn hóa từ chức sẽ ra đời.
261120230429 van hoa tu chuc 2

         Thêm nữa, cần thay đổi triệt để quan niệm xử lý công việc theo kiểu duy tình hơn duy lý. Một bộ phận trong cán bộ lãnh đạo quản lý của chúng ta khi xử lý công việc vẫn còn nặng về mặt tình nghĩa, cán bộ, công chức sai phạm đôi khi xử lý nhẹ nhàng, theo kiểu “xuê xoa” dẫn đến tâm lý ỷ lại, làm mất đi tính kỷ cương và như thế sẽ rất khó cho sự ra đời của văn hóa từ chức.
         Thứ hai, cần làm thật tốt công tác tuyển dụng, đề bạt cán bộ, công chức. Tuy ít, nhưng tình trạng “chạy chức chạy quyền”, “chen chân” vào bộ máy nhà nước vẫn còn, và khi đã như thế, cán bộ công chức sẽ không có lòng tự trọng, có thể vì sự tham quyền, tham lợi nên không buông bỏ được, dù không xứng đáng.. Từ đây nảy sinh ra chuyện chạy chọt, ưu tiên người nhà, họ hàng,… tạo ra lợi ích nhóm. Vì thế, khi đã là biên chế công chức nhà nước, có chức vụ thì không dễ gì để từ chức.
        Thứ ba, cần nêu cao tinh thần gương mẫu, tiếp tục trau dồi, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong mỗi đảng viên, cán bộ, công chức.
       Theo đó, bản thân mỗi cán bộ, công chức phải thật sự nêu gương về đạo đức, lối sống, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tự giác chấp hành Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không sa vào chủ nghĩa cá nhân, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; thực hiện đúng lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm; việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh[5].
        Ngoài ra, cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo ở cương vị cao, phải là những người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động và sáng tạo, luôn đặt lợi ích của đất nước và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Đăc biệt, khi tự mình thấy không có đủ năng lực và uy tín hoặc để xảy ra vụ, việc nghiêm trọng thuộc trách nhiệm lãnh đạo, quản lý thì nên chủ động từ chức để thực hiện tốt vấn đề nêu gương trong công vụ.
        Thứ tư, cần xây dựng những quy định mang tính pháp lý cụ thể hơn nữa để không chỉ khuyến khích mà còn phải bắt buộc những người không tự giác vẫn phải từ chức. Từ trước đến nay, vì quy định về vấn đề từ chức chưa rõ ràng nên tâm lý của cán bộ, công chức muốn từ chức cũng khó, nếu xây dựng được quy định riêng thì sẽ có cơ sơ để thực thi. Quy định về từ chức sẽ mở đường cho cán bộ, công chức tự xây dựng cho mình văn hóa từ chức khi có những sai phạm, làm mất uy tín trong Đảng, trong nhân dân. Quy định cũng sẽ tạo tiền lệ, tạo tiền đề cho việc cán bộ, công chức tự nhận ra sai phạm của mình, sẽ chủ động từ chức trước khi bị xử lý kỷ luật.
        Thứ năm, trước khi có quy định riêng về vấn đề từ chức, các cấp, các ngành, toàn dân cần đẩy mạnh tuyên truyền trong xã hội về văn hóa từ chức; khuyến khích sự tự nguyện từ chức và đánh giá cao những người có đủ dũng khí, lòng tự trọng, biết liêm sỉ tự nguyện từ chức, đồng thời định hướng dư luận xã hội không nên nặng nề đối với những người tự nguyện từ chức. Phải xem đó cũng là một hoạt động thực thi công vụ bình thường.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy rằng, để việc từ chức trở thành văn hóa, ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp làm của đảng viên, cán bộ, công chức là công việc hết sức khó khăn, đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp khác nhau với sự đồng lòng của toàn xã hội, trong đó, điểm cốt lõi trước tiên nằm ở đạo đức, tinh thần, trách nhiệm vì nước, vì dân của từng cán bộ, công chức.
261120230513 1(2)
Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc xây dựng đất nước, hiện thực hóa khát vọng phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc.

         Tóm lại, xây dựng và phát huy văn hóa từ chức không chỉ là một đòi hỏi cấp thiết trong công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia, mà còn là biểu hiện của sự trưởng thành chính trị, đạo đức công vụ và bản lĩnh cá nhân của cán bộ, công chức. Từ chức - khi được đặt đúng trong bối cảnh và chuẩn mực - không phải là sự thất bại, mà là hành động can đảm, mang tính xây dựng, thể hiện lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm với Đảng, với nhân dân. Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân đang kiên quyết xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, đủ tâm - tầm - tín, thì văn hóa từ chức cần được xác lập như một tiêu chí đánh giá đạo đức và bản lĩnh, góp phần lan tỏa tinh thần liêm chính, nâng cao chất lượng công vụ và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, để từ đó hướng tới một nền công vụ vì nước vì dân, tạo nền tảng vững chắc cho một Việt Nam ngày càng hùng cường, tươi đẹp.
 
 [1]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.263.
 [2]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.75.
 [3]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.269.
 [4]  Bài đăng trên báo Cứu quốc ngày 21/1/1946
 [5]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.65.
Tác giả: ThS Dương Văn Tiến - Khoa Nhà nước và pháp luật

Tác giả: Dương Văn Tiến

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây