VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Thứ bảy - 21/06/2025 19:01 163 0
Theo Chương trình đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị (LLCT), triết học Mác - Lênin giữ vai trò rất quan trọng, nó không chỉ là khoa học trang bị tri thức cho người học - những cán bộ đã, đang và sắp giữ vai trò vị trí lãnh đạo, quản lý mà còn góp phần lớn trong giáo dục về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, đạo đức, văn hóa, ý thức, trách nhiệm công dân… để từ đó góp phần xây dựng nên những con người mới, nền văn hóa mới.
          Tư tưởng Hồ Chí Minh trung thành với phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng đã được vận dụng và chuyển hoá để xử lý thành công những vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra - trở thành bộ phận quan trọng cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin tạo thành nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Vấn đề liên hệ, vận dụng tư tưởng Người trong nghiên cứu, học tập và giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng là một đòi hỏi có tính cấp thiết, sáng tạo và thường xuyên. Điều đó không chỉ làm “mềm hóa”, dễ hiểu, bài học sinh động mà còn như là một sự gắn kết và minh chứng lý luận Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó cũng là cách củng cố về mặt lý luận lẫn thực tiễn về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, con đường cách mạng đúng đắn của Việt Nam và góp phần xây dựng, tôi luyện niềm tin, lý tưởng cách mạng cho giảng viên, học viên và các thế hệ cách mạng nối tiếp.
16772 diễn biến hòa bình
         2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy triết học Mác - Lênin - một số minh họa gợi ý
      Trên hành trình tìm đường cứu nước cũng như trong suốt cuộc đời hoạt động cống hiến cho cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống sâu sắc và truyền bá những tư tưởng đó vào Việt Nam. Do vậy, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin có mối liên hệ hữu cơ đặc biệt khăng khít, gắn bó. Từ nền tảng văn hoá, tinh thần phương Đông vững chắc, lãnh tụ kính yêu của cách mạng Việt Nam đã tiếp biến những tinh hoa tư tưởng của thời đại phát sinh trong phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới. Thế giới quan, tư duy triết học của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Người đã phát triển tư duy triết học trên nền tảng triết học Mác - Lênin. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng - học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định Người là “một nhà duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa các mặt tưởng chừng khó dung hòa của sự nghiệp cách mạng”[i]. Tuy không để lại một tác phẩm triết học thuần nhất bởi nhiệm vụ của Hồ Chí Minh là cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột, bất công, đem lại hòa bình, tự do, hạnh phúc cho đồng bào; song trong các trước tác của Người có nội dung rất phong phú, đa dạng thể hiện nhiều vấn đề cơ bản của triết học về thế giới quan, nhân sinh quan, phép biện chứng, nhận thức luận, mối quan hệ dân tộc với giai cấp, cá nhân và xã hội…
        Những quy luật, phạm trù, học thuyết của triết học Mác - Lênin vốn mang tính hàn lâm và trừu tượng, nên việc nhận thức và vận dụng vào cuộc sống luôn là những đòi hỏi cao và phức tạp. Chính vì vậy, các giảng viên giảng dạy triết học luôn không ngừng tìm kiếm nhiều giải pháp, công cụ và cả những tri thức liên môn với hình thức rất đa dạng, kết hợp truyền thống lẫn hiện đại, sáng tạo với nhiều màu sắc nhằm mục tiêu tối ưu hóa, hiệu quả hóa cao nhất có thể trong dạy học bộ môn. Trong hệ thống tri thức gần gũi, liên môn, có cùng bản chất thì tư tưởng Hồ Chí Minh - sự kế thừa, bổ sung và phát triển những quan niệm triết học mácxít luôn được nghiên cứu ứng dụng, vận dụng thường xuyên và tối đa nhất vào chương trình Trung cấp LLCT ở các trường chính trị tỉnh. Có thể minh họa sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy học phần triết học Mác - Lênin trong chương trình Trung cấp LLCT hiện nay ở một số nội dung cốt lõi như sau:
       Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, tồn tại với tư duy được xem là vấn đề cơ bản của triết học. Về nội dung này, giảng viên có thể nêu vấn đề yêu cầu cho học viên tìm những lời nói, trích dẫn, hành động của Hồ Chí Minh để kết luận về thế giới quan triết học của Người. Trong mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, tồn tại với tư duy, Hồ Chí Minh đã nói: “Hoạt động sản xuất vật chất là nguồn gốc của sự phát triển hiểu biết của loài người”[ii]. Rõ ràng, quan điểm này vừa thể hiện lập trường duy vật: sản xuất vật chất là nguồn gốc, có trước hiểu biết, ý thức; vừa khẳng định tính “khả tri” - tính nhận thức được của con người và loài người.
       Vật chất quyết định ý thức thể hiện rõ nét trong niềm mong muốn, khát vọng của Hồ Chí Minh về kiến tạo một nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Nghèo túng về vật chất thì khó mà có cuộc sống hạnh phúc, phong phú về tinh thần, nên ngay khi nước nhà độc lập, Người đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[iii]. Người nhấn mạnh: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[iv].
thang 6 CN MLH

        Vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thức có tính độc lập tương đối và có tác động lại vật chất là luận điểm duy vật biện chứng cơ bản của triết học mácxít. Thế giới quan duy vật Hồ Chí Minh cũng thể hiện rõ nét qua những lời thơ: “Bốn tháng cơm không no/Bốn tháng đêm thiếu ngủ/Bốn tháng áo không thay/Bốn tháng không giặt giũ…/…Vật chất tuy đau khổ/Không nao núng tinh thần”[v]. Nếu duy vật nhưng siêu hình, nghĩa là chỉ thấy tuyệt đối một mặt - vật chất quyết định ý thức, nhưng rõ ràng Hồ Chí Minh duy vật và cũng rất biện chứng, tức đã khẳng định ý thức không thụ động mà còn có vai trò to lớn trong tác động lại vật chất. Sau khi giành thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Chính phủ xây dựng còn khó khăn thiếu thốn nhiều về vật chất, thiết bị, ngày 16/6/1947 Người đã viết Thư gửi các nhân viên cơ quan Chính phủ rằng: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật chất, chúng ta vì nước, vì dân mà chịu khổ, một cái khổ rất có giá trị, thì vật chất càng khổ tinh thần càng sướng”[vi]. Để hoàn thành sự nghiệp lớn, yếu tố quan trọng là tinh thần, Hồ Chí Minh so sánh cụ thể giá trị vật chất, tinh thần giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp trong chiến tranh và kết luận chính yếu tố tinh thần đã giúp ta hoàn thành sự nghiệp lớn. Ngày 09/5/1965, nhân kỷ niệm hai ngày, ngày 7/5 - Chiến thắng Điện Biên Phủ và ngày 9/5 - đại thắng của Liên Xô trước chủ nghĩa phát xít, dưới bút danh Chiến sĩ, Người viết: “Về lực lượng vật chất, thì Pháp mạnh hơn ta thật. Chúng có xe tăng, đại bác, tàu chiến, máy bay… Ta thì hầu như hai bàn tay không, cái gì cũng thiếu… Nhưng về tinh thần và chính trị, thì ta mạnh gấp trăm gấp nghìn thực dân Pháp. Ta có chính nghĩa… sức đoàn kết chặt chẽ của toàn dân”[vii]. Cái quan trọng của ý thức, tinh thần, sự hiểu biết, thông thái của con người, của một dân tộc đã được Hồ Chí Minh đúc kết thành luận điểm nổi tiếng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”[viii].
        3. Một số lưu ý
       Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn của Người với trí tuệ dân tộc, trí tuệ thời đại và diễn ra trên cơ sở thế giới quan duy vật, khoa học và biện chứng. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cứu dân, cứu nước, tìm một con đường phát triển mới để canh tân vận mệnh dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm đến nhiều học thuyết Đông - Tây, trên hết là chủ nghĩa Mác - Lênin, đã học hỏi, tiếp thu, dung hợp, tích hợp, hình thành cho mình một thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng mácxít, tạo nền tảng triết học để xây dựng lý luận, đường lối và phương pháp cho cách mạng Việt Nam. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn, biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng thực hành, nó được thể hiện và xuyên thấm trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của Người. Chính vì vậy, sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy LLCT nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là một yêu cầu cao về chuyên môn lẫn nghệ thuật sư phạm. Điều này đặt ra đòi hỏi giảng viên lẫn học viên phải có được các năng lực như tinh giản nội dung kiến thức tổng thể, từng bài học, năng lực bám sát cốt lõi, kết luận, xử lý thành thục giữa nội dung với phương pháp... Theo đó, thực hiện vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy học phần triết học Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh hiện nay, cần một số lưu ý cơ bản:
         Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một học phần riêng được bố trí sau các môn học Mác - Lênin, do vậy đây là một trở ngại trong việc vận dụng minh họa, làm sáng tỏ các nguyên lý, mệnh đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vì có thể có học viên chưa tiếp cận và có nhiều về kiến thức, học liệu (số ít những học viên chưa kinh qua trình độ cao đẳng, đại học, hoặc đã học qua thời gian khá lâu). Bản thân một số giảng viên triết học cũng còn nhiều hạn chế, chưa sâu sắc hết tư tưởng Hồ Chí Minh về triết học cũng như khả năng chọn lọc những trích dẫn thật sự “kinh điển” của Người để phân tích, làm sâu rộng cho triết học mácxít. Chính vì vậy, sự tự học, đào sâu thêm kiến thức về tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ thường xuyên của giảng viên lẫn học viên. Hơn nữa, dạy học là một quá trình tác động hai chiều trong đó giảng viên và học viên cùng tham gia để làm tăng giá trị và lợi ích của nhau, nên không thể vì một vài trở ngại nhỏ mà chững lại con đường tự học và học suốt đời, hoặc kìm hãm hứng khởi khám phá những tri thức khoa học, bổ ích của lãnh tụ Hồ Chí Minh về triết học mácxít.
1 xay dung d 1

         Thứ hai, giảng viên cần sự điều phối hài hòa, hợp lý các mảng kiến thức triết học trọng tâm trong bài giảng để vận dụng, minh họa tư tưởng Hồ Chí Minh một cách linh hoạt, uyển chuyển và hiệu quả. Sự tham lam vận dụng, dẫn dắt, minh họa tư tưởng của Người có thể làm phản tác dụng và vô hình trung biến giờ giảng, bài giảng triết học Mác - Lênin “bội thực” thành tư tưởng Hồ Chí Minh, và khả năng gây suy giảm những giá trị tiền đề, vốn có của triết học mácxít. Đảm bảo tính khoa học, logic chặt chẽ, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ vận dụng vào thực tiễn công tác chuyên môn lẫn cuộc sống là một yêu cầu cần đảm bảo và hướng tới trong quá trình giảng dạy bộ môn. Theo kinh nghiệm bản thân, “trích dẫn kinh điển”, “ngôn ngữ hàn lâm” là những đặc trưng vốn có của triết học Mác - Lênin, nó gây nên sự trừu tượng, phức tạp, áp lực và khó “tiêu hóa” cho người học nên giảng viên cần quan tâm đến thực hành tương tác, thảo luận một cách thẳng thắn, dân chủ, cởi mở; đến nhu cầu của người học và tính vừa sức. Giảng viên cần làm “mềm hóa” một số “ngôn ngữ hàn lâm” của triết học Mác - Lênin, nhưng cũng không thể và không nên theo kiểu “xay nhuyễn” triết học Mác - Lênin cho người học dễ “tiêu hóa”, điều đó dễ gây ra tính lười biếng, ỷ lại và làm thui chột tinh thần tự học và sức sáng tạo của họ./.
 
[i]. Phạm Văn Đồng (1997), Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, trong Hồ Chí Minh - Tác giả - tác phẩm - nghệ thuật ngôn từ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 21.
[ii]. Hồ Chí Minh (2011),  Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 121.
[iii]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, tập 4, tr. 64.
[iv]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, tập 4, tr. 175.
[v]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, tập 3, tr. 417-418.
[vi]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, tập 5, tr. 176.
[vii]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, tập 14, tr. 542.
[viii]. Hồ Chí Minh (2011), Sđd, tập 4, tr. 7.
 
Tác giả: ThS Nguyễn Văn Hiền – Khoa Lý luận cơ sở
Ảnh tư liệu: Hoàng Đức Ngọc

Tác giả: Nguyễn Văn Hiền

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây