SỨC MẠNH DÂN TỘC VIỆT NAM NHÌN TỪ CÔNG TÁC HẬU CẦN TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Trần Hoài Sơn
2024-05-16T04:07:53-04:00
2024-05-16T04:07:53-04:00
https://truongchinhtri.gialai.gov.vn/tin-noi-bat/suc-manh-dan-toc-viet-nam-nhin-tu-cong-tac-hau-can-trong-chien-dich-dien-bien-phu-361.html
https://truongchinhtri.gialai.gov.vn/uploads/news/2024_05/img_20240507_074245_1.jpg
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ - GIA LAI
https://truongchinhtri.gialai.gov.vn/uploads/logo.png
Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” với ý nghĩa và tầm vóc cùng những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong cuộc chiến đó, hình ảnh những con người vĩ đại, những trận đánh oanh liệt, những chiến công vang dội, những hy sinh mất mát... đã đi vào lịch sử của dân tộc như một khúc ca hào hùng, một mốc son chói lọi. Trong đó, hình ảnh đoàn người ngày đêm đào núi mở đường, vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí đạn dược... đảm bảo hậu cần phục vụ cho tiền tuyến đã trở thành một biểu tượng lớn về sức mạnh của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Khoảng giữa năm 1953, với thế đánh như chẻ tre, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc và Sầm Nưa (Thượng Lào). Cuối năm 1953, địch nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ và nhanh chóng xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm vững chắc. Chúng âm mưu kéo quân chủ lực ta vào cuộc chiến ở nơi cách thật xa hậu phương, thiếu đường sá, phương tiện vận chuyển lạc hậu, hòng khoét sâu thế yếu của ta về hậu cần để tiêu hao chủ lực của ta. Trước tình hình đó, ngày 6/12/1953, tại An toàn khu Thái Nguyên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Một trong những khó khăn của chiến dịch là phải đảm bảo được công tác hậu cần. Với phương châm “Tất cả cho mặt trận, tất cả cho chiến thắng”, Bộ Chính trị quyết định: “Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”. Quán triệt đường lối lãnh đạo của Đảng, tư tưởng quân sự, hậu cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngành hậu cần quyết tâm chỉ đạo, triển khai và thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần cho chiến dịch. Do đó, dù khó khăn đến đâu, bộ đội và nhân dân cũng nguyện đem hết tinh thần, sức lực, của cải, vật chất để bảo đảm cho bộ đội đánh địch ở Điện Biên Phủ.
Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam làm việc với Tổng cục Cung cấp tính toán bước đầu, phải huy động cho chiến dịch 4.200 tấn gạo (chưa kể gạo cho dân công), 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường. Tất cả đều phải vận chuyển qua chặng đường dài 500 km phần lớn là đèo dốc hiểm trở, máy bay Pháp thường xuyên đánh phá. Theo kinh nghiệm vận tải đã tổng kết ở chiến dịch Tây Bắc (năm 1952), để có 1 kg gạo đến đích phải có 24 kg ăn dọc đường. Vậy nếu cũng vận chuyển hoàn toàn bằng dân công gánh bộ, muốn có số gạo trên phải huy động từ hậu phương hơn 60 vạn tấn, và phải huy động gần 2 triệu dân công để gánh. Cả 2 con số này đều cao gấp nhiều lần so với kế hoạch dự kiến ban đầu.
Để một lực lượng mạnh cho chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã huy động tối đa về sức người và sức của: hàng vạn dân công và bộ đội làm đường dã chiến trong khoảng thời gian cực ngắn, dưới các điều kiện rất khó khăn trên miền núi, lại luôn bị máy bay Pháp oanh tạc. Các dân công từ vùng do Việt Minh kiểm soát đi tiếp tế bằng gánh gồng, xe đạp thồ kết hợp cùng cơ giới đảm bảo hậu cần cho chiến dịch. Đội quân gồm thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, được huy động tới hàng chục vạn người (gấp nhiều lần quân đội) và được tổ chức biên chế như quân đội.
Tổng cộng trong thời gian tiến hành chiến dịch, Hội đồng Cung cấp mặt trận các Liên khu và tỉnh đã huy động được hơn 26 vạn dân công (261.453 nghìn lượt người tính thành 12 triệu ngày công) từ các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4…, 20.911 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, đóng góp cho chiến dịch 25.056 tấn lương thực và gần 1.824 tấn thực phẩm. Trừ số tiêu hao dọc đường, số tới được mặt trận để cung cấp cho quân đội là 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô. Ngoài ra, từ Thanh Hóa, Hòa Bình, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ… cũng đã huy động được hơn 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, 325 xe ngựa, hàng chục ngàn xe đạp thồ để phục vụ hậu cần chiến dịch.
Có thể nói, những kết quả đạt được của công tác bảo đảm hậu cần là một trong những nhân tố quyết định cho quân đội ta chiến đấu và giành chiến thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ chiến thắng của công tác hậu cần của quân và dân ta đã khẳng định rõ hơn nữa sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước, để lại cho thể hệ chúng ta về ý nghĩa và bài học về sức mạnh của dân tộc Việt Nam, cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho mỗi con người, mỗi đơn vị trong quá trình phần đấu nỗ lực, vượt qua khó khăn, chinh phục khó khăn thử thách để giành chiến thắng ở giai đoạn hiện nay và mai sau. Đó là ý nghĩa và bài học về các sức mạnh sau đây:
Thứ nhất, sức mạnh yêu nước và tinh thần đoàn kết
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, khó khăn lớn nhất của ta chính là công tác tiếp tế, bảo đảm hậu cần vì chiến trường ở xa hậu phương chiến lược từ 500-600km, địa hình vô cùng khó khăn, hiểm trở. Làm thế nào để có thể huy động được một lượng lớn sức người, sức của, các phương tiện vật chất để đảm bảo vận chuyển đủ nhu cầu về lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược... cho tiền tuyến với sự thay đổi lớn về mặt chiến thuật tác chiến? Đó là câu hỏi khá nan giải được đặt ra khi ta mở chiến dịch.
Tuy nhiên, tất cả mọi người, không kể ngày đêm, không kể người kinh, người thượng, không thể già trẻ gái trai, tất cả đều căm thù quân xâm lược, quyết tâm chiến đấu đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước, giành lại tự do cho nhân dân. Họ đã bất chấp những khó khăn, nguy hiểm về tính mạng, họ đã hòa nhập làm một, tạo ra một không khí phấn khởi, tinh thần quyết tâm mạnh mẽ để thực hiện mục tiêu mà công tác hậu cần đặt ra. Có thể nói, nếu không có lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết, chung sức chung lòng, tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng, thì quân và dân ta không thể khắc phục được những khó khăn trong công tác bảo đảm hậu cần cho chiến dịch.
Chính lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết là sức mạnh to lớn của dân tộc, đã kết nối nhưng người dân trên mọi miền đất nước hướng về tiền tuyến, hướng về thắng lợi. Vì vậy, Đảng và NN ta trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ TQ XHCN cần phát huy lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc để tạo ra động lực lớn cho nhân dân.
Thứ hai, sức mạnh nghị lực, sự dũng cảm, bất chấp khó khăn
Địa hình vùng Tây Bắc, nhất là khu vực Điên Biên có rừng núi hiểm trở, đường vận chuyển cơ giới bị hư hỏng nặng, thời tiết khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất, trang bị còn nhiều thiếu thốn… Hơn nữa, để mở chiến dịch ta phải huy động lực lượng bộ đội, dân công, thanh niên xung phong rất lớn. Đặc biệt, công tác hậu cần của ta còn bị sự ngăn chặn đánh phá của địch nên khó khăn càng khó khăn hơn nữa. Vì vậy, để vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, đặc biệt là đạn dược, vũ khí, các loại pháo ... lên cho bộ đội, cần có một nghị lực, sự dũng cảm, chịu khó chịu khổ phi thường của quân và dân ta. Phía Pháp cho rằng QĐNDVN không thể đưa pháo lớn (cỡ 105mm trở lên) vào Điện Biên Phủ, các khó khăn hậu cần của QĐNDVN là không thể khắc phục nổi nhất là khi mùa mưa đến. Navarre lý luận rằng Điện Biên Phủ ở xa hậu cứ Việt Minh 300–400 km, qua rừng rậm, núi cao, QĐNDVN không thể tiếp tế nổi lương thực, đạn dược cho 4 đại đoàn được, giỏi lắm chỉ một tuần lễ là QĐNDVN sẽ phải rút lui vì cạn tiếp tế. Trái lại quân Pháp sẽ được tiếp tế bằng máy bay, trừ khi sân bay bị phá hủy do đại bác của quân ta. Navarre cho rằng trường hợp này khó có thể xảy ra vì sân bay ở quá tầm trọng pháo 105 ly của ta, và dù ta mang được pháo tới gần thì tức khắc sẽ bị máy bay và trọng pháo Pháp hủy diệt ngay. Vì các lý do trên, khi thiết lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã đánh giá sai khả năng của ta và đều tự tin cho rằng Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả chiến bại", là "cái bẫy để nghiền nát chủ lực Việt Minh". Nếu quân đội ta tấn công sẽ chỉ chuốc lấy thảm bại.
Và một điều đặc biệt nữa là, trong chiến dịch, ta đã có sự thay đổi chiến thuật mang tính bước ngoặt: Từ “đánh nhanh, thắng nhanh” chuyển sang “đánh chắc, thắng chắc”. Theo đó, chúng ta phải thực hiện công đoạn rất khó khăn: kéo pháo vào, kéo pháo ra, rồi lại kéo pháo vào. Chính việc thay đổi chiến thuật này đã giúp quân dân ta giành thắng lợi tại chiến dịch. Tuy nhiên, việc kéo pháo vô cùng vất vả và khó thực hiện. Nhưng với sức mạnh từ sự nghị lực, không chịu khuất phục trước khó khăn, đông đảo dân công nam nữ ngày đêm trèo đèo lội suối, mặc gió mưa, rét mướt, mặc máy bay địch oanh tạc đánh phá, mặc bom chờ nổ, quyết chuyển được số pháo, đạn dược, lương thực cho bộ đội đánh giặc, nhân dân và bộ đội ta đã lập một kỳ tích ngoài sự tính toán của địch về công tác tiếp tế bảo đảm hậu cần cho Chiến dịch Điện Biên Phủ và chính địch cũng bị thất bại trước sự bảo đảm đầy đủ kịp thời về công tác hậu cần để bộ đội ta quyết chiến quyết thắng.
Thứ ba, sức mạnh trí tuệ và sự sáng tạo
Công tác hậu cần đã xuất hiện nhiều sáng kiến độc đáo, tiêu biểu, có giá trị lâu dài do bộ đội và dân công sáng lập. Đó là các sáng kiến như: Bếp Hoàng Cầm, sự xuất hiện của xe đạp thồ, làm giá đỗ trên vai, đắp lò nung vôi sản xuất bông băng tại chỗ, những khẩu hiệu chuyển thương độc đáo, sáng kiến làm lán cho bộ đội ở, sáng kiến chống phồng chân, ngủ gật khi hành quân, xuất hiện nhiều lái xe tiêu biểu về tiết kiệm và an toàn... Tất cả những sáng kiến trong công tác hậu cần đó, mà đặc biệt là sự xuất hiện của xe đạp thồ, đã minh chứng cho sức mạnh về trí tuệ và sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam, biết cách vượt lên khó khăn bằng sức mạnh của chính bản thân mình. Chính phương tiện vận chuyển này đã gây nên bất ngờ lớn ngoài tầm dự tính của các chỉ huy Pháp, làm đảo lộn những tính toán trước đây khi cho rằng Việt Minh không thể bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch lớn, dài ngày trong các điều kiện phức tạp như vậy được.
Những sáng kiến của quân và dân trong Chiến dịch ĐBP đã cho chúng ta bài học về óc sáng tạo, kế thừa và phát huy những nguồn vật chất đã có để có thể tạo ra những sản phẩm phục vụ cho bản thân, cho xã hội, cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Có thể nói, Điện Biên Phủ là chiến dịch lớn nhất và là chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật chỉ đạo bảo đảm hậu cần trong tác chiến chiến dịch. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy cao độ ý chí quyết chiến, quyết thắng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta; đặc biệt là đã huy động tối đa sức người, sức của bảo đảm hậu cần cho trận quyết chiến chiến lược thắng lợi. 70 năm đã trôi qua, những bài học kinh nghiệm về công tác hậu cần trong chiến dịch ĐBP vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.
-----------------
ThS Lê Thị Mỹ Hoàng - Khoa Nhà nước và pháp luật