Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước” với việc vận dụng vào giảng dạy trong chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

Thứ sáu - 27/11/2020 17:07 6.082 0
Bài tham luận tại Hội thảo khoa học tại Trường Chính trị tỉnh Gia Lai, ngày 27/11/2020, Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Ph. Ăng-ghen, với chủ đề: NHỮNG CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA PH.ĂNG-GHEN - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Quang cảnh Hội thảo 1
Quang cảnh Hội thảo

Tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước” là một trong số những tác phẩm kinh điển nổi tiếng của Phri-đrích Ăng-ghen.
Trong bài tham luận này, chúng tôi xin được trình bày một số vấn đề cơ bản của tác phẩm, đồng thời gợi ý một số nội dung vận dụng để giảng dạy trong chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính ở trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Kỷ yếu Hội thảo
Kỷ yếu Hội thảo

I. Những luận điểm quan trọng của Ph. Ăng-ghen trong tác phẩm
1. Nguồn gốc gia đình
Dựa trên quan niệm duy vật về lịch sử, Ăng-ghen đã xem xét, nghiên cứu sự phát triển gia đình trong sự phát triển của sản xuất vật chất. Ông cho rằng: “nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất đó quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình.”.[i] Luận điểm trên của Ăng-ghen đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của sản xuất và sự phát triển của gia đình; trong đó, các quan hệ gia đình bị chi phối bởi sự phát triển của sản xuất và ngược lại, các quan hệ gia đình có ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội.
Tư tưởng trên của Ăng-ghen chính là sự phản ánh, đúc kết thực tiễn của lịch sử phát triển gia đình.
Quan hệ gia đình và hôn nhân trong buổi bình minh của lịch sử loài người là chế độ quần hôn. Trong chế độ này, người ta không thể xác định được chính xác ai là người cha đích thực của những đứa con sinh ra. Cho nên, về mặt tự nhiên, người mẹ là tiêu chuẩn xác định quan hệ với con cái. Nói cách khác, đặc trưng của quan hệ gia đình trong giai đoạn này là chế độ mẫu quyền.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, con người dần thoát khỏi chế độ quần hôn. Người đàn ông, với những tố chất tự nhiên như có sức mạnh cơ bắp, nhanh nhẹn, dũng cảm… đã tỏ ra thích hợp hơn trong việc đảm trách các công việc này. Điều đó dẫn đến việc người đàn ông đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất và địa vị của họ trong gia đình cũng ngày càng tăng lên. Đó là tiền đề kinh tế quan trọng để quan hệ gia đình chuyển dần sang chế độ phụ quyền.
Về mặt lịch sử, các hình thức gia đình phát triển dần từ gia đình cùng dòng máu trong chế độ quần hôn sang gia đình cặp đôi rồi đến gia đình gia trưởng. Nét đặc trưng của gia đình gia trưởng chính là việc người đàn ông chính thức nắm giữ vai trò thống trị trong gia đình. Trong hình thức gia đình đó, người đàn ông giữ vai trò chủ đạo về kinh tế, họ có thể có nhiều vợ, con cái mang họ cha. Khi luận giải bước chuyển từ gia đình cặp đôi sang gia đình gia trưởng, Ăng-ghen đã nhấn mạnh đến sự tích luỹ của cải về phía người đàn ông và xem nó như một yếu tố cơ bản dẫn đến sự chuyển biến từ chế độ mẫu quyền sang chế độ phụ quyền.
Thời đại tư bản chủ nghĩa, với đặc trưng là nền kinh tế phát triển nhanh hơn bất cứ một giai đoạn nào trước đó trong lịch sử, đã sản sinh ra hình thức gia đình một vợ một chồng. Theo quan niệm tư sản, “hôn nhân là một hợp đồng, một công việc có tính pháp lý, hơn nữa lại là một công việc quan trọng nhất trong tất cả các công việc, vì nó định đoạt cả thể xác lẫn tinh thần của hai con người trong suốt cả cuộc đời họ.”.[ii]
Theo Ăng-ghen, hôn nhân tư sản thực tế không dựa trên tình yêu mà do những nhân tố kinh tế quyết định. Qua phân tích những nghịch lý trong chế độ hôn nhân và sự bất bình đẳng giới tính xuất phát từ chế độ tư hữu, ông đã đưa ra kết luận nổi tiếng về chế độ hôn nhân: “Nhưng vì do bản chất của nó, tình yêu là không thể chia sẻ được (…) cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam nữ, do ngay bản chất của nó, là hôn nhân một vợ một chồng.”. [iii]
Những tư tưởng cơ bản trên đây của Ph.Ăng-ghen không chỉ vạch ra nguồn gốc và sự hình thành gia đình trên tinh thần biện chứng duy vật, mà còn cung cấp cho chúng ta những nguyên lý mang tính phương pháp luận trong nghiên cứu gia đình hiện đại.
Đ/c Trần Hoài Sơn trình bày tham luận
Đ/c Trần Hoài Sơn - đồng tác giả trình bày tham luận

2. Về nguồn gốc và bản chất của nhà nước
Từ những khảo cứu thực tế lịch sử, dựa trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Ăng-ghen đã luận chứng một cách khoa học nguồn gốc, bản chất, quy luật hình thành và phát triển của nhà nước như một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Nhà nước, theo đó, không phải là một thực thể quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, là bằng chứng của những mâu thuẫn, của những phân chia xã hội thành các lực lượng đối lập nhau mà tự chúng không thể giải quyết được. Để những mặt đối lập và những giai cấp có quyền lợi mâu thuẫn nhau ấy không đi đến tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt cả xã hội, thì cần phải có một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu xung đột và giữ cho xung đột trong vòng trật tự, lực lượng ấy là nhà nước.
Những tiền đề kinh tế và xã hội của sự xuất hiện nhà nước, theo Ph.Ăng- ghen, là sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội phân chia thành giai cấp. Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là kết quả của những mâu thuẫn giữa các giai cấp không thể điều hoà được, là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa cần có một quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân, thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém là tình trạng chưa phân hoá giai cấp, là những thị tộc, bộ lạc và đứng đầu các tổ chức này là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã đưa lại năng suất lao động ngày một cao và xuất hiện của cải dư thừa. Đây là điều kiện khách quan làm xuất hiện sự chiếm đoạt của cải ở một số người có quyền lực và sự phân hoá xã hội thành những giai cấp đối kháng. Sau lần phân công lao động xã hội thứ ba, đã có sự tích tụ của cải về một số ít người và sự bần cùng hoá một số đông người. Sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp như vậy đã làm cho chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã.
Ăng-ghen đã trình bày, phân tích về ba lần phân công lao động xã hội lớn trong lịch sử dẫn đến việc ra đời nhà nước.
“Một số bộ lạc tiên tiến nhất (…) lúc đầu lấy việc thuần dưỡng gia súc và về sau lấy việc chăn nuôi và coi giữ gia súc làm ngành lao động chủ yếu của mình. Những bộ lạc du mục tách khỏi bộ phận còn lại của những người dã man: đó là sự phân công xã hội lớn đầu tiên.”.[iv]
Lần phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai được Ăng-ghen mô tả: “sự phân công lớn lần thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp.”. [v]
Sau khi các bộ lạc du mục tách ra, chúng ta thấy có sẵn tất cả các điều kiện cho sự trao đổi giữa các thành viên ở những bộ lạc khác nhau, cho sự phát triển và củng cố sự trao đổi ấy. Lúc đầu, sự trao đổi được tiến hành giữa các bộ lạc thông qua tù trưởng thị tộc ở mỗi bên; nhưng khi những đàn gia súc bắt đầu chuyển thành sở hữu tư nhân thì sự trao đổi giữa cá nhân với nhau ngày càng thắng thế và cuối cùng trở thành hình thức trao đổi duy nhất. Gia súc trở thành hàng hóa dùng để đánh giá tất cả các hàng hóa khác và ở đâu người ta cũng được vui lòng nhận đổi với các hàng hóa khác. Tóm lại, gia súc đã nhận được chức năng tiền tệ và nó được dùng làm tiền tệ ngay từ giai đoạn đầu.
Đến đây, Ăng-ghen nhận định: “và thời đại văn minh còn thêm vào đó một sự phân công thứ ba, một sự phân công riêng của nó và có một ý nghĩa quyết định: sự phân công này nảy sinh ra một giai cấp không còn tham gia sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, đó là những thương nhân.”. [vi]
Sự xung đột lợi ích xuất hiện, ngày càng gay gắt; cần phải có một tổ chức để quản lý, điều tiết xã hội, lúc này xuất hiện nhà nước.
Sự xuất hiện nhà nước xảy ra trong quá trình lâu dài và phức tạp, trải qua một loạt các giai đoạn khác nhau. Đồng thời, do các đặc điểm về kinh tế - xã hội và lịch sử khác nhau nên có nhiều phương thức hình thành nhà nước khác nhau, như ở các nhà nước A-ten, Rô-ma, Giéc-manh, v.v…
Nhà nước là một bộ máy đặc biệt để bảo đảm sự thống trị về kinh tế, để thực hiện quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với quần chúng. Ngoài việc thực hiện các chức năng trên, nhà nước còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong xã hội, nghĩa là phải thực hiện các chức năng xã hội. Điều đó nói lên rằng nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa mang bản chất xã hội.
3. Sự tiêu vong của nhà nước
Theo Ăng-ghen, nhà nước tiêu vong cũng là một tất yếu như sự xuất hiện của nó trong điều kiện xã hội nhất định. Nhà nước không tồn tại, cũng như từ xa xưa xã hội đã có thời kỳ không cần đến nhà nước, thậm chí không có một khái niệm nào về nhà nước. Đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, giai đoạn đương nhiên phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế và phân chia xã hội thành giai cấp thì sự xuất hiện của nhà nước trở thành một tất yếu. Nhưng sẽ đến thời kỳ sự tồn tại của những giai cấp nói trên không còn là một tất yếu nữa, hơn nữa sự tồn tại của các giai cấp còn là trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Khi giai cấp không còn thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong.
Ăng-ghen nhận định rằng: Giai cấp vô sản giành lấy nhà nước và biến những tư liệu sản xuất thành sở hữu của xã hội, từng bước tự xoá bỏ mình với tư cách một giai cấp, xoá bỏ sự khác biệt giai cấp và mọi sự đối lập giai cấp, đồng thời xoá bỏ cả nhà nước. Khi nhà nước đã trở thành đại diện của toàn thể xã hội, không còn giai cấp nào bị áp bức nữa, không còn đấu tranh sinh tồn cá nhân nữa, vai trò của nhà nước sẽ mất dần đi. Nhà nước sẽ đi đến chỗ tự tiêu vong cũng là một tất yếu khách quan khi nó đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình, khi “chủ nghĩa cộng sản” văn minh được hoàn thành.
II. Vận dụng những luận điểm của Ăng-ghen vào nghiên cứu, giảng dạy chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị-hành chính
Trong các chương trình lý luận chính trị trước đây, nội dung giảng dạy về nguồn gốc, bản chất của nhà nước thường được đưa tập trung vào môn học nhà nước và pháp luật. Hiện nay, nội dung này được cơ cấu ở nhiều phần học. Do dung lượng giới hạn của giáo trình, nội dung được trình bày hết sức cô đọng, ngắn gọn.
Vì vậy, việc nghiên cứu tác phẩm kinh điển “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước” để vận dụng vào giảng dạy là hết sức cần thiết và quan trọng, không chỉ đối với các nội dung về nhà nước mà cả ở các nội dung về tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật, pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Theo chúng tôi, việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm cần tập trung vào các luận điểm cơ bản được đúc kết trong tác phẩm. Về cơ bản, gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất, hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự ra đời của nhà nước là sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự xuất hiện các giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp.
Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là tiền đề kinh tế của việc ra đời nhà nước. Với ba lần phân công lao động xã hội lớn đã thúc đẩy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển, hình thành nên chế độ sở hữu tư nhân.
Chế độ sở hữu tư nhân, đặc biệt là tư hữu về tư liệu sản xuất đã dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp có lợi ích khác nhau. Khi xã hội phân chia thành những giai cấp giàu và nghèo, thì xã hội cũng nảy sinh ra những mâu thuẫn gay gắt, quyết liệt giữa những giai cấp có lợi ích đối kháng. Đây chính là tiền đề chính trị - xã hội của việc ra đời nhà nước. Trong điều kiện đó, việc xuất hiện nhà nước, với tư cách là tổ chức để thực hiện sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác là tất yếu khách quan.
Ở các quốc gia có những điều kiện lịch sử khác nhau thì sự hình thành nhà nước cũng khác nhau. Cần nghiên cứu sâu về các hình thức xuất hiện nhà nước mà Ăng-ghen đã trình bày trong tác phẩm: Nhà nước A-ten (cổ Hy Lạp); Nhà nước Rô-ma (cổ La Mã); Nhà nước Giéc-manh (nước Đức cổ).
Từ đây, có thể liên hệ đến lịch sử, nguyên nhân ra đời nhà nước Việt cổ.
Thứ hai, bản chất của nhà nước vừa mang tính giai cấp (bản chất giai cấp), vừa mang tính xã hội. Hai thuộc tính này tồn tại trong một thể thống nhất, không thể tách rời. Không tuyệt đối hoá hoặc coi nhẹ thuộc tính nào. Từ đó ta có thể luận giải cho sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước ta. Những luận giải này cũng cần được làm rõ trong phần nội dung bài học tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đối với những nội dung về nguồn gốc, bản chất của nhà nước, cán bộ giảng dạy cũng cần nghiên cứu tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, trong đó V.I. Lênin tiếp tục phát triển tư tưởng của Mác, Ăng-ghen về nhà nước trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc.
Thứ ba, những nguyên nhân làm phát sinh nhà nước, cũng chính là những nguyên nhân làm phát sinh pháp luật. Nhà nước và pháp luật ra đời đồng thời và là sản phẩm của sự phát triển đến một trình độ nhất định của xã hội, là sản phẩm trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp.
Nhà nước và pháp luật là phạm trù lịch sử, phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Vận dụng các luận điểm này để giảng dạy phần nội dung về nguồn gốc và bản chất của pháp luật (phần học III.1, Bài 4).
Thứ tư, từ những luận điểm của Ăng-ghen về sự hình thành gia đình và phân tích, đánh giá trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử về sự phát triển, vai trò của gia đình, cần nghiên cứu và luận chứng cho các vấn đề cơ bản trong nội dung Luật hôn nhân và gia đình (Phần học III.1, Bài 5). Đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình nước ta: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Đại biểu dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm
Đại biểu dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm

III. Kết luận
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước” đóng góp to lớn, có ý nghĩa khoa học về nguồn gốc của gia đình; chế độ sở hữu tư nhân và về sự ra đời của nhà nước.
Những quan điểm, những đánh giá, những kết luận của Ăng-ghen trong tác phẩm luôn mang tính thời sự đòi hỏi những người cộng sản phải vận dụng sáng tạo, đồng thời bổ sung phát triển những tư tưởng đó trước yêu cầu, điều kiện mới.
Trong điều kiện hiện nay, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước, chống phá quyết liệt Nhà nước ta - cột trụ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện, củng cố kiến thức kinh điển để đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn thù địch, phản tiến bộ, truyền đạt kiến thức và niềm tin cho học viên học lý luận chính trị là nhiệm vụ cấp bách của tất cả đội ngũ giảng viên trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
 
[i] Mác - Ăng-ghen, Tuyển tập, tập VI. Nxb Sự thật, 1983, tr. 26.
[ii] Mác - Ăng- ghen, Sđd, tr. 127.
[iii]Mác - Ăng- ghen, Sđd,  tr. 129, 130.
[iv] Mác - Ăng- ghen, Sđd, tr. 244-245.
[v] Mác - Ăng- ghen, Sđd, tr. 250.
[vi] Mác - Ăng- ghen, Sđd, tr. 253, 254.

 

Tác giả: Trần Hoài Sơn - Phan Thanh Nhất

Ghi rõ nguồn Cổng thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Bình Định (truongchinhtri.binhdinh.gov.vn) khi trích dẫn lại tin, bài từ địa chỉ này
 Tags: hội thảo

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Truyền hình đảng cộng sản Việt Nam
Học và làm theo tấm gương Bác
Thi đua yêu nước
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập2
  • Hôm nay260
  • Tháng hiện tại1,684
  • Tổng lượt truy cập3,478,154
Văn bản cấp tỉnh
Học viện chính trị khi vực IV
Tạp chí cộng sản
Tạp chí lý luận chính trị
Học viện hành chính
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây