TRƯỜNG CHÍNH TRỊ - GIA LAIhttps://truongchinhtri.gialai.gov.vn/uploads/logo.png
Chủ nhật - 09/08/2020 02:455.3610
Tham luận của Trường Chính trị tại Toạ đàm cấp tỉnh Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, do Trường Chính trị phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tổ chức, ngày 18/5/2020Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: Bản lĩnh được giải nghĩa là “Tài năng và ý chí” [i]. Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt của Giáo sư Nguyễn Lân: Bản lĩnh là nhân cách và tài năng sẵn có khiến người ta có bản sắc riêng [ii] Một số từ điển Oxford, Merriam Webster, Cambridge… cũng định nghĩa từ bản lĩnh (bravery) là phẩm chất, đức tính của cá nhân, gắn liền với ý chí, tài năng, đức hy sinh, dũng cảm, nghị lực, kiên trì vượt qua trở ngại…[iii] Có thể hiểu bản lĩnh là phẩm chất, đức tính của cá nhân, thể hiện thông qua việc tự quyết định thái độ, hành động của mình một cách độc lập, không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan điểm, lập trường. Để có được bản lĩnh, con người cần có đủ tài năng, lý trí, ý chí và những đức tính như: dũng cảm, dám nghĩ dám làm, làm những gì mà mình cho là đúng; dám đối mặt với sự thật, không ngại thách thức bản thân và là một người có trách nhiệm. Hơn thế nữa, bản lĩnh là sự can đảm, dám bỏ qua mọi thứ không cần thiết để thay đổi bản thân mình. Bản lĩnh chính trị của cá nhân được hiểu là bản lĩnh về mặt chính trị. Biểu hiện với những đặc điểm: Kiên định quan điểm, lập trường, tư tưởng chính trị; sự nhạy bén trước những diễn biến tình hình phức tạp; sự chín chắn, độc lập, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề thực tiễn, đảm bảo đúng quy luật vận động của sự vật, hiện tượng; có ý chí, thái độ kiên quyết, rõ ràng, có hành động cụ thể bảo vệ quan điểm, chính kiến, không dao động, không lùi bước trước những trở lực đi ngược lại quy luật khách quan. Đối với lãnh tụ chính trị, thì bản lĩnh chính trị còn thể hiện ở những phẩm chất đặc biệt: - Có tri thức khoa học uyên bác, nhận thức, nhìn thấu được quy luật khách quan, nắm bắt xu thế vận động của dân tộc, thời đại. - Có năng lực thuyết phục, tập hợp, cổ vũ quần chúng nhân dân, không phải chỉ bằng lời nói mà còn thông qua hành động, nêu gương của bản thân. - Có năng lực hoạch định, đề ra kế hoạch, đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện. - Có ý chí kiên định, trước sau như một. Bản lĩnh chính trị là phẩm chất cơ bản của người cán bộ lãnh đạo, thể hiện sự độc lập, tự chủ, kiên trì, quyết đoán, sáng tạo trong lĩnh vực hoạt động chính trị. Đây còn là tài năng, đức tính tự quyết định một cách độc lập thái độ, quan điểm, hành động, không bị những tác động bên ngoài làm thay đổi chính kiến. Bản lĩnh nói chung, bản lĩnh chính trị nói riêng không phải hình thành một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải được rèn luyện một cách có ý thức trên cơ sở phát huy những nhân tố chủ quan kết hợp với các nhân tố khách quan. Sự hình thành bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh chính là qua con đường đó. Đó là quá trình tích hợp các nhân tố chủ quan và khách quan, quá trình Hồ Chí Minh không ngừng tự giác rèn luyện các phẩm chất cơ bản từ đạo đức, trí tuệ cho đến phương pháp, phong cách trên cơ sở phát huy các phẩm chất ưu việt của bản thân, đồng thời kết hợp với sự lựa chọn, kế thừa các giá trị tinh hoa của dân tộc, thời đại nhằm mục đích cao nhất là phục vụ hiệu quả sự nghiệp chính trị của Người. Tìm hiểu về thuở thiếu thời của người thiếu niên Nguyễn Sinh Cung, chúng ta đã biết về tư chất, bản lĩnh được hình thành từ rất sớm của Hồ Chí Minh. Về sau, với cương vị là lãnh tụ của một đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước suốt 24 năm, qua rất nhiều hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã thể hiện một bản lĩnh chính trị sắc bén của một nhà lãnh đạo, của một vĩ nhân với tầm nhìn và tư duy vượt thời đại. Đó là bản lĩnh của người đã đưa dân tộc Việt Nam ra khỏi sự bế tắc về lý luận cách mạng, thức tỉnh nhân dân về con đường cứu nước. Bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là bản lĩnh của con người xuất hiện đúng lúc của lịch sử, đáp ứng được những đòi hỏi của lịch sử. Đó là bản lĩnh của một con người “có những tư tưởng đúng được đưa vào thời điểm sai”. Con người đó đã vượt lên hoàn cảnh, chế ngự hoàn cảnh, “giúp nhân dân ta có được một tầm nhìn, chỉ cho đất nước một bến đỗ an toàn. Và hơn thế nữa, một lãnh tụ như thế cũng chỉ cho ta cách kiểm soát phong ba bão táp thông qua lòng tự hào, lao động cần cù và quan hệ hòa hiếu” (Katherine Muller Marin - Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam.) Để bước đầu tìm hiểu về bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh, trong bài tham luận này xin được trình bày và phân tích thông qua một số sự kiện trong đời hoạt động chính trị của Bác Hồ. 1. Bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh tìm đường giải phóng dân tộc Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Dưới ngọn cờ của giai cấp phong kiến và tầng lớp sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã lần lượt dẫn dắt các phong trào yêu nước của nhân dân ta hòng đánh đuổi thực dân Pháp, giành lấy độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Nhưng dù dưới lập trường tư tưởng nào, theo phong kiến, hay theo khuynh hướng mới dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, thì các phong trào đấu tranh của nhân dân ta vẫn lần lượt bị thất bại, bị thực dân Pháp đàn áp một cách đẫm máu. Bước sang đầu thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc đã lâm vào bế tắc, khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước. Khi cả dân tộc đang đắm chìm trong đêm dài nô lệ, chưa tìm được lối ra cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thì Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Hành trang của Người là tấm lòng nồng nàn yêu nước, thương dân và hoài bão cứu nước, cứu dân. Trong sách Chuyện kể về Bác Hồ, NXB Giáo dục Việt Nam, kể lại câu chuyện về “Hai bàn tay”. Lúc bấy giờ là năm 1911, anh Ba (tên gọi lúc đó của Bác Hồ) còn rất trẻ, cùng bạn là anh Lê dắt nhau đi nhiều nơi trong thành phố, những cảnh tượng đầy rẫy bất công đập vào mắt họ. Anh Ba nói với anh Lê: Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào nước ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví dụ như khi đau ốm. Anh có muốn đi với tôi không? Anh Lê đáp: Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi? Đây, tiền đây- anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay. Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ bất cứ việc gì để sống và để đi. Chúng ta có thể thấy rằng với câu chuyện thời còn rất trẻ của Bác, đã thể hiện bản lĩnh của người thanh niên yêu nước chân chính, với lòng dũng cảm, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại, dám nghĩ, dám làm. Con đường Bác chọn không phải là con đường mà các sĩ phu yêu nước trước đó đã chọn. Sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương…Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau…Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.” [iv] Chắc hẳn lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh chưa thể có một nhận thức khoa học, lý tính, nhưng Người dứt khoát chọn con đường phải đi ra nước ngoài, sang phương Tây để khảo sát. Những khái niệm tự do, bình đẳng, bác ái hoàn toàn xa lạ với phương Đông, và nó cũng trái ngược với thực tế những gì đang diễn ra tại những dân tộc thuộc địa như An Nam. Nhưng Hồ Chí Minh vẫn quyết định sang phương Tây. Điều này liệu có phù hợp không? Để lý giải điều này, quay lại thời điểm năm 1905 Nguyễn Tất Thành được thân phụ cho đi học Trường Pháp - bản xứ mở tại Vinh, tỉnh lỵ của Nghệ An. Tại Trường Tiểu học Vinh, Nguyễn Tất Thành chú ý đến ba từ tiếng Pháp được sơn vào gỗ gắn phía trên bảng đen Tự do-Bình đẳng-Bác ái. Tìm hiểu những từ này, Nguyễn Tất Thành biết đó là khẩu hiệu nổi tiếng của Đại cách mạng Pháp năm 1789. Đây là điều hoàn toàn mới lạ đối với Nguyễn Tất Thành, nó rất khác với những điều mà Anh được học trong sách vở, khác với cả những cảnh được mắt thấy tai nghe những người Pháp đối xử với đồng bào mình. Vì vậy, rất tự nhiên Nguyễn Tất Thành nảy ra ý muốn “tìm hiểu những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy.” Trong thời gian tìm đường cứu nước khoảng mười năm trời, tư duy và hoạt động của Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định bản lĩnh và trí tuệ của một trái tim lớn tràn đầy nhiệt huyết cứu nước. Bằng dự cảm chính trị thiên tài, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã nhận thấy những hạn chế và bế tắc về mục tiêu và phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thờinên khó đi đến thành công. Qua các cuộc khảo sát khắp các lục địa, qua tiếp xúc quảng giao, hoạt động xã hội và cách mạng, Hồ Chí Minh nhanh chóng tăng vốn hiểu biết tri thức và kinh nghiệm cuộc đời. Xuất phát từ một nước thuộc địa, Người đã ‘tôi luyện những ý tưởng cách mạng - tiến bộ, tự do, dân chủ phương Tây”[v]. Điều vượt trội của Hồ Chí Minh là ở chỗ Người tiếp nhận những tri thức đó qua bài học của tinh thần yêu nước, qua lăng kính giải phóng dân tộc và Người đã xác định được cái đích đi tới rất rõ ràng, đó là “tự do cho đồng bào, độc lập cho tổ quốc”, là “đoàn kết các dân tộc thuộc địa”. Như vậy, những năm 1919 -1920, Hồ Chí Minh còn lúng túng về trước các cuộc bàn cãi sôi nổi, như Người tâm sự: “Tôi biết rất ít về các vấn đề chính trị…Tôi chưa biết đảng là gì, công đoàn là gì, càng không rõ chủ nghĩa xã hội khác chủ nghĩa cộng sản ở chỗ nào…Tôi biết rất ít về Cách mạng Tháng Mười và về Lênin; về cảm tính tôi thấy mình có mối tình đoàn kết với cuộc cách mạng Nga và người lãnh đạo cuộc cách mạng ấy, nhưng tôi chưa hề đọc tác phẩm nào của Lênin” [vi]. Nhưng với sự nhạy bén chính trị, nhạy cảm giai cấp, Hồ Chí Minh từ chỗ tham gia vào Đảng Xã hội Pháp đã đi tới quyết định chọn con đường cách mạng mà Lênin đã khai phá, con đường cách mạng Tháng Mười, con đường cách mạng vô sản, con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc. Từ đó trở đi, với sự kiện Đại hội Tua (Tours, tháng 12-1920) và suốt cả quá trình cách mạng, ta có một vị lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn kết hợp một cách tài tình, nhuần nhuyễn đến kỳ lạ trí tuệ và bản lĩnh, tính kiên quyết và mềm dẻo trên tất cả các phương diện của cuộc cách mạng, cả trong quá trình hoạch định đường lối, chỉ đạo cách mạng, xây dựng hệ thống chính trị, đến cả những lúc đối mặt với kẻ thù. 2. Bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh mở đường, dẫn đường giành độc lập, tự do cho dân tộc Sau khi tiếp nhận và hiểu sâu sắc ý nghĩa luận cương của Lênin và tổ chức Quốc tế thứ ba, Hồ Chí Minh đã chủ động trong các cuộc họp của Đảng Cộng sản Pháp để khẳng định nhận thức và quan điểm của mình, đồng thời bảo vệ lý luận của Lênin. Sự kiện Hồ Chí Minh gửi đến Hội nghị Vecxay yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam đã có một tiếng vang lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp. Người Pháp coi cuộc đấu tranh ấy là một “quả bom” làm chấn động dư luận Pháp. Còn người Việt Nam thì cho đó là “phát pháo hiệu” thức tỉnh nhân dân ta đứng dậy đấu tranh cách mạng. Sau sự kiện đó, mọi hoạt động của Hồ Chí Minh đều nằm trong tầm ngắm của bộ máy thuộc địa Pháp. Theo tác giả E. Côbêlép: “Đầu năm 1923, Anbe Xaro, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp, gửi toàn quyền Đông Dương M.Lông một bức điện cho biết Chính phủ Pháp có ý định bắt giam Nguyễn Ái Quốc rồi đưa về Việt Nam dưới sự quản thúc của cảnh sát địa phương vì hoạt động chính trị của anh ở Pháp có tính chất nguy hiểm”. Và chính Anbe Xaro, con người được mệnh danh là “đao phủ Sài Gòn”, là tên “bảo vệ cuồng nhiệt quyền lợi của tư bản Pháp”, đã gọi Hồ Chí Minh đến văn phòng Bộ Thuộc địa vừa đe dọa, vừa lôi kéo. Xaro nói: “Ở Pháp đã xuất hiện những kẻ ngông cuồng có liên lạc với bọn Bônsêvich ở Nga. Từ Nga, họ lại liên lạc với Quảng Đông, và từ Quảng Đông liên lạc với Việt Nam. Họ âm mưu phá rối trật tự trị an ở Đông Dương và chống đối lại nhà nước bảo hộ. Nước mẹ đại Pháp rất khoan hồng, nhưng sẽ không tha thứ những kẻ gây rối loạn. Chúng tôi có đủ sức để bẻ gẫy họ…Tôi rất thích những thanh niên có chí khí như ông. Có chí khí là tốt, nhưng còn phải “thức thời” mới ngoan. Ồ này, khi nào ông cần gì, tôi luôn sẵn sàng giúp đỡ ông. Từ nay, chúng ta đã quen biết nhau, ông không nên khách sáo…”[vii] Đối mặt với trùm thực dân khét tiếng, nhưng khi Xaro còn đang nói, Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, sự kiên quyết và dũng cảm của mình. Người đứng phắt dậy, nhìn thẳng vào mặt Xaro, rồi nói một cách bình thản: “Cảm ơn ngài! Cái mà tôi cần nhất trên đời là: đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” [viii]. Cũng từ sau khi lựa chọn tán thành Quốc tế thứ Ba, Hồ Chí Minh đã lao vào cuộc chiến đấu, hăng hái tranh luận, tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lênin và Quốc tế thứ Ba. Người không chỉ tranh luận trong chi bộ của mình mà còn đi đến các chi bộ khác để nêu câu hỏi: “Nếu các đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc thuộc địa, thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?”[ix]. Những cống hiến lớn của Hồ Chí Minh thể hiện trí tuệ tuyệt vời góp phần phát triển học thuyết Mác - Lênin. Đóng góp rõ nhất của Hồ Chí Minh ở chỗ đào sâu thêm, phân tích sâu sắc hơn vấn đề thuộc về đặc thù của nước ta, Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa cộng sản. Đây chính là bước ngoặt trong cuộc đời, sự nghiệp của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc, mở đường, dẫn dắt cho cách mạng, cho dân tộc Việt Nam đi theo con đường của Lênin, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
3. Học tập bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh để nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên Theo Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là sự thể hiện tính giai cấp, “tính Đảng” trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm; là luôn “nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[x]; là “phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân”[xi]. Do đó, rèn luyện bản lĩnh chính trị để mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng, “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới” [xii]; đồng thời, nỗ lực, sáng tạo và phát huy sức mạnh tiềm năng hoàn thành nhiệm vụ được giao phó là yêu cầu vừa thường xuyên, vừa bức thiết trong công tác xây dựng Đảng. Qua đó, không chỉ nhằm “xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng”[xiii], “nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả”[xiv] mà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng; khi mà một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, với những biểu hiện về sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, chạy theo danh lợi, tiền tài, địa vị, tham ô, tham nhũng, mưu cầu lợi ích nhóm… Thực tế công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng những năm qua, đặc biệt là khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với những quy định về những điều đảng viên không được làm… đã cho thấy việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được triển khai thực hiện nghiêm túc ở Trung ương và địa phương. 4. Sự cần thiết nên bổ sung nội dung về nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên trong chương trình trung cấp lý luận chính trị. Hiện nay, môn tư tưởng Hồ Chí Minh được gọi là phần học I.2 trong bộ môn những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với 5 bài: 1. Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh; 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết; 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân; 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. Trước những phân tích mà bài viết nêu ở trên, ta có thể thấy việc nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là hết sức cần thiết, đặc biệt trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống trường Đảng. Từ những dẫn chứng như trên, theo chúng tôi, cần phải xây dựng, bổ sung thêm các chuyên đề về học tập phong cách, học tập tư tưởng, học tập bản lĩnh của chủ tịch Hồ Chí Minh trong chương trình hệ trung cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị - hành chính hiện nay để nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong giai đoạn hiện nay, nhằm bồi dưỡng bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, bồi dưỡng tính đảng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên vượt qua nguy cơ của “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, của suy thoái đạo đức lối sống và các thế lực chống đối đảng, nhà nước và nhân dân ta.
[i] Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 46
[ii] Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, NXB Từ điển bách khoa, HN 2002
[iii]Bravery: the quality or state of having or showing mental or moral strength to face danger, fear, or difficulty; willing to do things that are difficult, dangerous, or painful…
[iv] Trần Dân Tiên – Những mẫu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Trẻ, 2004, tr 10-11
[v] Hữu Ngọc: Phác thảo chân dung văn hóa Pháp, Nxb. Ngoại văn Việt Nam, H.1991, tr.21
[vi] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr. 583
[vii] E.Côbêlép: Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên – Nxb Tiến bộ, M.1985, tr.89-90.