CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ BÀI HỌC VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Thứ hai - 19/08/2024 05:39 4.924 0
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cuộc cách mạng này để lại nhiều bài học vô cùng quý giá. Một trong những bài học hết sức to lớn và quý giá đó là bài học về đại đoàn kết dân tộc. Bài học ấy, không chỉ có ý nghĩa đối với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hai cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam của Tổ quốc, mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và nóng hổi tính thời sự. Tiếp tục phát huy giá trị của bài học này ngày nay là hết sức cần thiết và cấp thiết.
        1. Đại đoàn kết - Một nội dung quan trọng trong đường lối, chủ trương giải phóng dân tộc của Đảng
          Một là, đường lối, chủ trương đại đoàn kết của Đảng được hoạch định chủ yếu trên cơ sở quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống yêu nước và thực tiễn cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam.
          Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến đại đoàn kết dân tộc từ rất sớm. Ngay từ tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Người đã nêu rõ vai trò của nhân dân trong cách mạng: “cách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai người”.
         Trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, Người chỉ rõ đối tượng rộng rãi và nòng cốt của khối đại đoàn kết: “Trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”(1).
         Đảng ta đã tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Thật vậy, do vị trí địa lý và đặc điểm của nền kinh tế nước ta nên trong lịch sử dân tộc ta liên tục phải đương đầu với những thử thách cam go - Chống ngoại xâm và chống thiên tai, làm thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, với cây lúa nước là cây trồng chủ yếu. Từ nhu cầu đó xuất hiện yêu cầu cố kết cộng đồng, trong mối quan hệ ba tầng nhà-làng-nước một cách chặt chẽ.
        Truyền thống đại đoàn kết quý báu của dân tộc ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định như một quy luật: Khi nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta được độc lập, tự do. Trái lại, khi nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Và :  “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn (đoàn kết - TG), nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2) .
         Bàn đến vai trò của đại đoàn kết và đại đoàn kết trong Cách mạng Tháng Tám, Người khẳng định: “Nhờ đại đoàn kết trong bao nhiêu thế kỷ, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập tự do của mình. Nhờ đại đoàn kết  mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm Cách  mạng Tháng Tám thành công”(3).
thang 8 Minh CMT8 1
Ngày 19/8/1945, sau cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. Cách mạng Tháng Tám là một bài học lịch sử, mở ra một thời đại mới ở Việt Nam, thời đại nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của chính mình. Ảnh: Tư liệu.

        Đường lối đại đoàn kết của Đảng còn xuất phát từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược.Trước khi Đảng ra đời, với truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân dân ta đã liên tục nổi dậy đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng chưa giành được thắng lợi. Một trong những nguyên nhân thất bại là chưa phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn tộc. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đặt ra yêu cầu cốt yếu là phải có sự lãnh đạo của Đảng để phát huy sức mạnh truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong thời đại mới.
        Khi Đảng ra đời, lãnh đạo cách mạng giai đoạn 1930-1945, đường lối, chủ trương đại đoàn kết đã được triển khai, kiểm nghiệm (trong xây dựng lực lượng cách mạng và phát động quần chúng nhân dân đấu tranh).
        Hai là, đại đoàn kết - Một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
       Đường lối đại đoàn kết được Đảng xác định ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Trong văn kiện quan trọng này, khi đề cập tới lực lượng cách mạng Đảng ta đã mở tới biên độ rộng nhất, với mẫu số chung là yêu nước (Khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công – nông).
thang 8 Đồng bào Sài Gòn hưởng ứng Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh Ảnh TTXVN
Đồng bào Sài Gòn hưởng ứng Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

       Chủ trương của Đảng còn được tiếp tục bổ sung, phát triển trong các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 10/1930, tháng 10/1936 và tháng 5/1941).
       Từ chủ trương của Đảng, để đoàn kết và tập hợp lực lượng, Đảng đã chỉ đạo thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất với các tên gọi khác nhau. Hội phản đế đồng minh (11/1930), Phản đế liên minh (3/1935), Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế (10/1936), Mặt trận dân chủ Đông Dương (6/1938), Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (11/1939), đặc biệt là, Mặt trận Việt Minh (5/1941).
      2. Đại đoàn kết – Cội nguồn thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945
     Chủ trương đại đoàn kết trong Cách mạng Tháng Tám được Đảng ta quán triệt, chỉ đạo thực hiện trong Hội nghị Toàn quốc của Đảng (13-15/8/1945), rõ nhất là quyết định Tổng khởi nghĩa – Huy động sức mạnh của cả dân tộc.
      Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(4).
      Thực hiện chủ trương đại đoàn kết của Đảng và Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 20 mươi triệu đồng bào Việt Nam đã vùng lên, lật đổ tất cả ách thống trị của Pháp, Nhật và chế độ phong kiến lạc hậu, thối nát đương thời, trong thời gian rất ngắn (khoảng 20 ngày). Điều này được thể hiện rõ ở mấy điểm lớn sau đây:
       Thứ nhất, lực lượng tham gia trong Cách mạng Tháng Tám là toàn dân (Khởi nghĩa toàn dân). Bởi vì, lực lượng cách mạng gồm 2 bộ phận: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Trong đó, lượng chính trị là chủ yếu và đấu tranh chính trị là cơ bản làm nên thắng lợi. Và thành phần tham gia lực lượng chính trị bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, không phân biệt già - trẻ, gái - trai, giàu -nghèo, quý - tiện, dân tộc, tôn giáo, đảng phái. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã một lần nữa khẳng định rõ điều này: “Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” (5) và “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”(6).
thang 8 Minh CMT8 2
Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Trong ảnh: Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), nơi diễn ra Đại hội Quốc dân
do Việt Minh triệu tập, ngày 16/8/1945. 

       Thứ hai, trong chủ trương của Đảng và quá trình chỉ đạo thực hiện, về mặt phương pháp, là khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc. Vì thế, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa tất yếu phải huy động sức mạnh của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh sống còn với kẻ thù.
       Tổng kết thắng lợi cách mạng Tháng Tám năm 1945, có bài học kinh nghiệm hết sức quan trọng: “Toàn dân nổi dậy trên nền tảng liên minh công – nông”(7). Và chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi”(8)
        3. Giá trị của bài học đại đoàn kết trong Cách mạng Tháng Tám
      Bài học đại đoàn kết trong cách mạng Tháng Tám, tiếp tục được Đảng ta quán triệt chỉ đạo thực hiện, trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo, làm nên những thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam.
        Một là, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954).
       Thứ nhất, về phương pháp, phương châm chỉ đạo kháng chiến tiếp tục được thể hiện ở việc Đảng ta đã nâng tầm từ Khởi nghĩa toàn dân lên thành Kháng chiến toàn dân. Và không những thế mà còn: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”.
      Thứ hai, Đảng tiếp tục chỉ đạo xây dựng, tập hợp lực lượng trong Mặt trận Việt Minh và trong các hình thức Mặt trận mới (Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (1946), Liên Việt (1951)).
      Đường lối kháng chiến toàn dân và việc huy động lực lượng toàn dân tộc đã được vận dụng sáng tạo trong suốt quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, làm nên những thắng lợi vang dội mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
       Hai là, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
     Thứ nhất, đường lối kháng chiến toàn dân tiếp tục được Đảng ta vận dụng và nâng lên một tầm cao mớiChiến tranh nhân dân. Đó sự kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, 03 mũi giáp công (chính trị, quân sự và binh vận), đánh địch cả trên 03 vùng chiến lược (vùng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị), kết hợp giữa sức mạnh tiền tuyến lớn (miền Nam) với hậu phương lớn (miền Bắc).
      Thứ hai, Đảng ta tiếp tục chủ trương và quán triệt chỉ đạo thực hiện việc xây dựng và tập hợp lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân trong các hình thức Mặt trận (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ở miền Bắc (1955); Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960)).
       Thực hiện chủ trương của Đảng, cả phương pháp, phương châm kháng chiến và xây dựng, tập hợp lực lượng, đã phát huy hiệu quả. Nhờ vậy, đã huy động tới mức tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
       Ba là, tiếp tục phát huy bài học đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
       Thứ nhất, chiến tranh nhân dân tiếp tục được Đảng ta vận dụng, bổ sung và phát triển. Trong tình hình mới, Đảng ta xác định phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Do đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải hết sức nỗ lực, luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch. Công tác giáo dục tuyên truyền có vai trò quan trọng trong việc phát huy cao nhất thế trận lòng dân để gần 100 triệu người dân Việt Nam là bấy nhiêu chiến sỹ.
       Thứ hai, việc thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục được phát huy. Nhờ vậy, toàn dân tiếp tục đoàn kết, sức mạnh của cả dân tộc được huy động tới mức tối đa, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện hại hoá và hội nhập quốc tế (1986 – nay). Tuy nhiên, thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là tình trạng tham nhũng, mất dân chủ...còn xy ra ở một số cơ quan, chi bộ, địa phương; tác động của mặt trái cơ chế thị trường (lối ống ích kỷ, thực dụng, quá coi trọng lợi ích vật chất...) và nguy hiểm hơn là âm mưu chia rẽ, “diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch bằng con bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc…nên đã ít nhiều ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc ta. Vì thế, tiếp tục phát huy bài học đại đoàn kết trong Cách mạng Tháng Tám là hết sức cần thiết và cấp thiết.
      Để thực hiện thắng lợi bài học đại đoàn kết, thời gian tới, cần làm tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
      Một là, đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, học tập về bài học đại đoàn kết nói chung, bài học này trong Cách mạng Tháng Tám nói riêng.
      Hai là, chú ý mục tiêu chung làm điểm tương đồng để thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết: “Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ Nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân(9)
     Ba là, tiếp tục thực hiện thật tốt đại đoàn kết. Trước hết là đoàn kết trong Đảng (Từ đoàn kết trong cấp ủy tới đoàn kết trong các tổ chức đảng các cấp), tiếp đó là đại đoàn kết toàn dân tộc: “đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước(10).
     Bốn là, cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; thực hiện tht tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022.
     Năm là, một trong những điểm mấu chốt để xây dựng khối đại đoàn kết là vấn đề đảm bảo lợi ích cho mọi nguời dân. Vì thế, Đảng cần tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm làm cho đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng nâng cao. Đồng thời, “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giải quyết tốt quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nâng cao cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, các giai tầng xã hội và của mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội, đóng góp cho đất nước và thụ hưởng thành quả phát triển (11).
thang 8 01 06 2022NGCTre 03
Nhãn

     Sáu là, Đảng tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh công tác đối ngoại, theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa và phương châm ngoại giao “cây tre” (Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển; “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”). Trên cơ sở đó, mở rộng và tăng cường quan hệ đối ngoại của Việt Nam với bè bạn khắp năm châu, nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
     Bảy mươi chín năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, phát huy đường lối, chủ trương và bài học đại đoàn kết trong Cách mạng Tháng Tám đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Chúng ta có quyền tin tưởng và hy vọng rằng, tiếp tục thực hiện bài học này, sẽ tiếp tục phát huy được sức mạnh vĩ đại của cả dân tộc, sớm thực hiện được mục tiêu chung, điểm tương đồng lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong tương lai không xa./.
Chú thích:

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr 35.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr. 38.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 9, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, tr.53.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 4, tr 4.
(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr. 1,2.
(7), (8) Hội đồng lý luận Trung ương, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,  Nxb Chính trị quốc gia, H.2012, tr.113.
(9), (10), (11) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023, về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.Tr. 1.
 
Tác giả bài viết: NCS Lê Văn Minh – Trưởng khoa Khoa Xây dựng Đảng
Ảnh tư liệu: Hoàng Đức Ngọc

Tác giả: Lê Văn Minh

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây