LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN – BẢN HÙNG CA BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM

Thứ ba - 20/12/2022 19:36 1.265 0
Sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng đã kéo vào nước ta, (với chiêu bài quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật) nhưng ý đồ thật sự của chúng là tìm cách lật đổ chính quyền cách mạng, nhằm đưa bọn phản động, tay sai Việt quốc, Việt cách lên nắm chính quyền.
        Trong khi đó ở miền Nam, ngày 6/9/1945, quân đội Anh đến Sài Gòn (cũng với danh nghĩa giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là giúp cho thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam). Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp được quân Anh giúp đã gây chiến ở Nam Bộ. Chúng mưu toan đánh chiếm Nam Bộ để từ đó đánh chiếm toàn bộ nước ta. Như vậy chỉ ba tuần sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhân dân Nam bộ đã đứng lên thực hiện lời thề “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Miền Nam đã “đi trước về sau” thật xứng đáng với danh hiệu cao quý "Thành đồng Tổ quốc”.
        Có thể thấy rằng tình thế đất nước lúc này cực kỳ khó khăn thù trong giặc ngoài tìm mọi cách để bóp chết nhà nước cách mạng non trẻ. Trong tình hình nghìn cân treo sợi tóc ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ đã có những quyết sách đúng đắn để phân hóa kẻ thù, tập trung vào kẻ thù nguy hiểm nhất lúc này là thực dân Pháp: Ký Hiệp định Sơ bộ (ngày 6/3/1946), 15.000 quân Pháp được ra phía Bắc vĩ tuyến 16, để thay thế quân đội của Tưởng Giới Thạch. Ký Tạm ước (14/9/1946)…Tuy nhiên dã tâm của Thực dân Pháp là xâm lược nước ta, nên mọi ký kết đều bị Pháp xé bỏ. Thực dân Pháp tiếp tục tăng quân ở Hà Nội, gây chiến ở Hải Phòng, sau đó là Lạng Sơn… Đến lúc này, khả năng hòa hoãn đã không còn. Ngày 19/10/1946, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự toàn quốc. Hội nghị nhận định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh ta, ta nhất định phải đánh lại chúng, vì vậy phải khẩn trương hơn nữa việc xây dựng lực lượng vũ trang để sẵn sàng chiến đấu với quân thù.
        Ngày 19/12/1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiệu triệu toàn dân bước vào cuộc chiến đấu mới: “Chúng ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên thúc giục hàng triệu người dân Việt Nam từ Bắc đến Nam đứng lên kháng chiến: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc xuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Với tư tưởng chỉ đạo “kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến trường kỳ, lấy sức mình là chính”. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bước vào cuộc kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, sau chín năm trường kỳ kết thúc thắng lợi vẻ vang với trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
        “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết nối của hào khí dân tộc ta từ  “Nam quốc sơn hà”, đến “Hịch tướng sĩ” của ông cha ta thủa trước, đã khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn quốc gia. Đó là sự bồi đắp của truyền thống dân tộc được hun đúc bởi mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước thiết tha kêu gọi hàng triệu, hàng triệu con dân Việt Nam đứng lên giữ nước. Một chân lý của muôn đời đó là lòng dân, khi mà lòng dân, ý dân đã quyết thì không kẻ thù nào, không khó khăn nào ngăn cản được. Đến nay chân lý đó vẫn giữ nguyên tính thời sự và tính cấp thiết trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn tin tưởng sâu sắc ở sức mạnh của nhân dân, Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
         76 năm trôi qua “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là bài học quý giá về bảo vệ tổ quốc khi tổ quốc lâm nguy, cũng đồng thời là lời cảnh tỉnh đối với các thế lực xâm lược rằng: Mỗi khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lăng thì dân tộc Việt Nam sẽ sẵn sàng hy sinh bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác đó cũng chính là câu trả lời đanh thép đối với kẻ thù xâm lược và chỉ ra cho chúng thấy ý chí, sức mạnh của dân tộc Việt Nam./.
 ThS. Nguyễn Tùng Lâm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây