Tuy nhiên sự ngông cuồng đó đã bị đập tan bởi ý chí kiên cường của quân dân miền Bắc, sự ủng hộ, lên tiếng của nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới, chúng ta đã lặp lại kỳ tích của một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu năm 1954 với một “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
Trong 12 ngày đêm ác liệt “Mỹ đã sử dụng 726 lượt chiếc máy bay chiến lược B52, gần 2.000 lượt chiếc máy bay ném bom chiến thuật. Riêng trên địa bàn Hà Nội có 444 lượt chiếc B52, chiếm trên 60% tổng số lần B52 xuất kích và hơn 1.000 lượt chiếc máy bay chiến thuật, đế quốc Mỹ ném xuống Hà Nội khoảng hơn 10.000 tấn bom, giết chết 2.380 người, làm bị thương 1.355 người” (1). Cũng trong 12 ngày đêm đó “quân và dân ta đã dũng cảm, kiên cường lập nên chiến công hiển hách, giáng cho không quân Mỹ đòn thất bại nặng nề: 84 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F111 của Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc, 43 giặc lái bị bắt sống. Riêng Hà Nội đã bắn rơi 23 máy bay B52 của Mỹ. Nói về tầm vóc to lớn của chiến thắng vẻ vang này, dư luận thế giới gọi đây là trận “Điện Biên Phủ trên không”(2). Theo đó góp phần quan trọng buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, tạo ra bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Chiến tranh đã dần lùi xa, tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi, còn tiểm ẩn nhiều những vấn đề phức tạp, vì vậy những bài học kinh nghiệm từ chiến thắng “Hà Nội–Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 đến nay vẫn mang nhiều ý nghĩa thiết thực.
Thứ nhất, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với các lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Đây là vấn đề mang tính tiên quyết cho sự thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải nhận thức một cách rõ ràng về những âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Thứ ba, tăng cường sự đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong các lực lượng vũ trang và trong các tầng lớp nhân dân là nội lực vô cùng quan trọng để đánh và thắng mọi kẻ thù. Bên cạnh đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ tổ quốc của chúng ta.
Thứ tư, phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần chủ động, sáng tạo từ chiến thắng “Hà Nội–Điện Biên Phủ trên không” của quân và nhân dân ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Không để tổ quốc bị bất ngờ, ra sức bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo của chúng ta.
Thứ năm, thực hiện tốt mục tiêu chung của Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”./.
(1) Thủ đô Hà Nội – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 – 1975, Nxb. Quân đội nhân dân, H.1991, tr.254
(2) Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, H.2017, tr.270.
ThS Nguyễn Tùng Lâm